Bác Hồ với thương binh, liệt sỹ
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM
Bác Hồ với thương binh, liệt sỹ (03/07/2018)

 

 

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã ghi dấu mốc son lịch sử hào hùng ở thế kỷ XX- nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh thắng hai tên thực dân đế quốc hung hãn, tàn bạo nhất là Pháp và Mỹ để giành thắng lợi trọn vẹn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đưa cả nước bước vào thời kỳ đổi mới, xây dựng đất nước theo con đường XHCN. Trong cuộc chiến đấu ấy, quân và dân ta đã không tiếc máu xương, với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, nhiều người con ưu tú của dân tộc đã hy sinh cả tuổi xuân, hoặc một phần thân thể cho sự nghiệp độc lập, tự do của Tổ quốc. Tổ quốc, nhân dân ta đời đời ghi nhớ công lao của các liệt sĩ, thương binh ấy.

Đặc biệt với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người càng hiểu rõ giá trị nhân văn của sự hy sinh của các liệt sĩ, các thương binh đối với dân tộc, với đất nước, Người nói:“máu đào của các liệt sĩ đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói, sự hy sinh của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn liệt sĩ”. Người nhắc: “Bổn phận của chúng ta là phải đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ và phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ, để vượt tất cả mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sĩ đã chuyển lại cho chúng ta”.

 Tháng 8-1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, nước VNDCCH ra đời. Ngay sau đó nhân dân ta lại phải bước vào một cuộc kháng chiến không cân sức do sự quay trở lại xâm lược của thực dân Pháp và các thế lực thù địch núp dưới danh nghĩa quân đồng minh. Chính phủ, nhân dân ta kiên quyết đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Đời sống nhân dân, nhất là bộ đội, chiến sĩ bị thương gặp nhiều khó khăn. Trong tình hình ấy Đảng và Nhà nước đã quyết định nhiều chính sách quan trọng về công tác thương binh, liệt sĩ, góp phần ổn định đời sống tinh thần và vật chất của thương binh và gia đình liệt sĩ.

- Tháng 11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra thông báo nhận con các liệt sĩ làm con nuôi: "vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền tự do, độc lập và thống nhất của nước nhà, hoặc là trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho các gia đình các liệt sĩ đó và tôi nhận các con liệt sĩ làm con nuôi của tôi”.

- Tháng 1-1947, khi nghe tin chiến sĩ Vũ Văn Thành, con trai bác sỹ Vũ Đình Tụng đã anh dũng hy sinh trong một trận chiến đấu ác liệt ở khu vực Chợ Hôm (Hà Nội), Bác đã gửi thư thăm hỏi tới gia đình, chia sẻ nỗi đau như chính con ruột của mình. Trong thư có đoạn: "Thưa ngài, tôi được báo cáo rằng con giai của Ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột... Những thanh niên đó là anh hùng dân tộc, đồng bào và Tổ quốc sẽ không bao giờ quên ơn họ”. Bác sỹ Vũ đình Tụng kể lại: Tự nhiên tôi thấy nỗi đau thương và sự mất mát của gia đình tôi trở thành nhỏ bé trong cái tình thương mênh mông và sự hi sinh cao cả của Bác Hồ, của cả dân tộc. Tôi nhìn rất rõ mình sẽ phải làm gì để xứng đáng với sự hy sinh của các con tôi và khỏi phụ lòng Bác

- Ngày 16-2-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20 về chế độ “Hưu bổng, thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sĩ”. Đây là văn bản đầu tiên của Đảng và Nhà nước ta về chế độ ,chính sách đối với thương binh, thân nhân liệt sĩ. Tiếp đó, ngày 19-7-1947 Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập Bộ Thương binh, cựu binh (nay là Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội). Ngày 3-10-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 101 về thành lập Sở, Ty thương binh, cựu binh ở khu, tỉnh.

Đặc biệt tháng 6-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị chọn một ngày trong năm làm ngày thương binh toàn quốc để nhân dân có dịp tỏ lòng biết ơn, yêu mến thương binh. Thực hiện chỉ thị của Người, một hội nghị gồm đại biểu các cơ quan, các ngành ở Trung ương, khu và tỉnh Thái Nguyên đã họp ở xã Phú Minh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên và nhất trí lấy ngày 27-7 hàng năm làm ngày “Thương binh toàn quốc”.

Khoảng 18h ngày 27-7-1947, đại diện Đảng bộ Việt Minh, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Nha thông tin, Cục Chính trị quân đội, chính quyền huyện Đại Từ, bộ đội, nhân dân địa phương đã mít tinh để nghe công bố bức thư đầu tiên Bác Hồ gửi Ban thường trực của Ban tổ chức ngày Thương binh và ghi nhận sự ra đời “ngày Thương binh toàn quốc”. Đầu thư Bác viết: Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe doạ. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh… Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy… Cuối thư Bác vận động đồng bào nhường áo, sẻ cơm giúp đỡ thương binh. Riêng Bác đã gửi tặng một chiếc áo lụa của chị em Hội phụ nữ biếu Người, một tháng lương của Người, tiền một bữa ăn của Người và các nhân viên trong Phủ Chủ tịch (tổng cộng 1.127 đồng).

Từ đó hàng năm cứ đến ngày “Thương binh-Liệt sĩ” bao giờ Bác cũng gửi thư thăm hỏi tới thương binh, gia đình liệt sĩ, tới các đơn vị điều dưỡng và các cán bộ phụ trách để nhắc nhở việc chăm sóc chu đáo các thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ .Cùng với những lời thăm hỏi động viên tinh thần là những món quà vật chất, khi là chiếc áo, khi là tấm khăn. Đặc biệt Bác thường gửi trọn tháng lương của mình vào dịp này tặng thương binh. Những món quà vật chất, tinh thần ấy đã khích lệ, tiếp thêm nhiều nghị lực cho các đồng chí thương binh.

 Không những thế, giữa bộn bề công việc, Người vẫn dành thời gian nhiều lần đến thăm anh em thương binh tại các trại điều dưỡng, bệnh viện hoặc đón tiếp họ tại nơi ở và làm việc của Người.

 - Đêm giao thừa năm 1956, Bác đến thăm Trường thương binh hỏng mắt Hà Nội. Trong lúc mọi người đang tập trung ở hội trường để chờ đón nghe thư chúc tết của Bác Hồ thì có tin Bác đến. Ai cũng nghĩ không có nguồn động viên nào lớn hơn thế. Bác hỏi thăm tình hình sức khoẻ, cuộc sống và chúc tết anh em nhân dịp năm mới: “Các chú tàn nhưng không phế”. Lời động viên của Bác đã trở thành khẩu hiệu hành động, phương châm sống của các đồng chí thương binh. Từ đó nhiều đồng chí đã nỗ lực học tập để nâng cao trình độ như anh Đinh Công Cẩn, Vương Nguyên Khoa, Huỳnh Đình Thảo đã tốt nghiệp đại học Tổng hợp văn, nhiều đồng chí tốt nghiệp cấp III, đặc biệt có nhiều anh đã quên đi ý định “quyên sinh” sau lần gặp Bác.

   
- Các chị Trần Thị Lý, Nguyễn Thị Kim Cúc, Huỳnh Thị Kiển là những thương binh nặng, bị địch tra tấn dã man. Và rất nhiều người con của miền Nam, miền Bắc là thương binh, là anh hùng dũng sĩ đã được Bác đón tiếp ân cần, thân mật tại nhà riêng trong khu Phủ Chủ tịch.

      Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn mong muốn công việc đền ơn đáp nghĩa với thương binh, gia đình liệt sĩ phải trở thành phong trào rộng khắp, là trách nhiệm của các cấp ,các ngành, của toàn xã hội “chứ không phải là việc làm phúc”. Cho nên vào các dịp kỷ niệm như: ngày thành lập Đảng, ngày thành lập nước, ngày kháng chiến toàn quốc… Bác không bỏ sót một cơ hội nào để nhắc nhở mọi người và tự nhắc mình “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”.

- Năm 1948, Người đề xuất với Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam thành lập các “Hội mẹ chiến sĩ”, “Hội ủng hộ thương binh”. Hoạt động của hội rất thiết thực, gắn bó tình quân dân thắm thiết, hết lòng chăm sóc giúp đỡ bộ đội, thương binh bằng tấm lòng cao cả nhân ái của các mẹ, các chị.

- Với các cháu thiếu nhi, Người gợi ý thành lập những "Đội Trần Quốc Toản" không phải để đi đánh giặc và lập được nhiều chiến công, mà cốt để tham gia kháng chiến bằng cách: trong nhóm giúp đỡ nhau học tập khi rảnh thì giúp đồng bào... sức các cháu làm được việc gì thì giúp việc ấy, ví dụ quét nhà, gánh nước, lấy củi, giữ em, dạy chữ quốc ngữ... Như thế các cháu rèn luyện được tinh thần siêng năng và bác ái.

- Năm 1951 Bác đề xướng một hình thức giúp đỡ thương binh rất thiết thực cho các địa phương. Tuỳ theo sự cố gắng và khả năng chung của mỗi xã mà đón một số thương binh về làng, để giúp lâu dài chứ không phải giúp bằng cách góp gạo nuôi thương binh. Cách làm như sau: mỗi xã trích một phần ruộng công, nếu không có ruộng công thì mượn ruộng của những đồng bào có hằng tâm, hằng sản; nếu không mượn được ruộng thì chính quyền đoàn thể, đồng bào trong xã chung sức phát vỡ một số đất mới, tổ chức việc cày cấy, chăm nom, gặt hái những ruộng đất ấy. Hoa lợi để nuôi thương binh... Anh em thương binh sẽ tuỳ sức mà làm những công việc nhẹ như học may, đan lát, hớt tóc, hoặc giúp việc phòng giấy... Như thế thì đồng bào mỗi xã được thoả mãn lòng ước ao báo đáp anh em thương binh, mà anh em thương binh thì được yên ổn về vật chất, vui vẻ về tinh thần và có dịp tham gia hoạt động ích lợi cho xã hội.

Cùng với việc kêu gọi, yêu cầu trách nhiệm của toàn xã hội đối với anh em thương binh, gia đình liệt sĩ. Người cũng nhắc nhở trách nhiệm của anh em thương binh với xã hội: “Các chú là những chiến sĩ đã được quân đội nhân dân rèn luyện về đạo đức và kỷ luật cách mạng, là những người con đã hy sinh một phần xương máu để bảo vệ nước nhà. Vậy các chú cần phải giữ vững truyền thống tốt đẹp và vẻ vang của quân đội cách mạng là: giữ gìn kỷ luật đoàn kết chặt chẽ, thật sự đoàn kết thương yêu giữa anh em thương binh với nhau; giữa thương, bệnh binh với cán bộ và nhân viên giúp việc ở trại, giữa thương bệnh binh với đồng bào xung quanh, mỗi thương, bệnh binh cần tự giác, hoà mình với nhân dân, tôn trọng nhân dân tránh phiền nhiễu nhân dân, tránh tâm lý công thần coi thường lao động, coi thường kỷ luật, chớ bi quan chán nản, phải luôn luôn cố gắng..."(5).

Tình cảm của Bác Hồ đối với thương binh, liệt sĩ thật vô bờ bến. Nó vừa là trách nhiệm của người đứng đầu Nhà nước vừa là tình cảm của người chủ gia tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi khi hoài bão lớn nhất của Người chưa trọn vẹn - Tổ quốc chưa thống nhất, nhưng Người vẫn khẳng định: Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Trước khi về với thế giới người hiền, trong khi về việc riêng Người không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là “không được phục vụ cách mạng lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”, thì Người vẫn nghĩ đến các liệt sĩ, các thương binh. Trong di chúc, Người căn dặn:

- Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...) Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần "tự lực cánh sinh".

- Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.

- Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp quyết không để họ bị đói rét.

Nguồn: ditichhochiminhphuchutich.gov.vn

Thống kê truy cập

Đang truy cập:

Hôm nay:

Tháng hiện tại:

Tổng: